Thứ Sáu, 29 tháng 4, 2016

NẮNG THÁNG TƯ

những con đường nắng ùa về nóng bỏng
bụi thời gian không gian tràn ngập phố phường
nắng rung bước chân
nắng rung căn nhà
vỡ vụn buồn tan hoang
khét nồng qúa vãng

nắng rối không gian
người chẳng kịp giữ sợi buông
nắng quấn chặt vặn thành câu hát
nhịp điệu số phận hối thúc cản ngăn
tiếng cười vui nét mặt xanh tiếc nuối

trời hai màu
rát mặt
nắng hóa lửa tràn lan mặt đất
cháy màu vàng lên không

quán cóc vỉa hè
vắng bóng người ồn ào thừa thải
từng dòng người cuốn như sông chảy
không kịp cà phê để lại chân dung
mất lời chào câu hỏi
vồi vội lao đi tựa mũi tên
về phía không định trước

nắng tháng tư khô ráp
rơi hạnh phúc
rơi thảm thương
nhìn xác nắng vấn vương
công viên đứng lại
cây cao gọi nắng lá đổ xuống đường

cứ mỗi tháng tư nặng nhẹ vui buồn
ở góc nào nắng nhạt đi đôi chút
hòa hợp rơi…


                 Sài Gòn, ngày 12 tháng 4 năm 2016

Thứ Ba, 26 tháng 4, 2016

KHÁT

bắt câu hỏi vấn đáp, trả lời xong, thêm câu hỏi phụ:
- con người khác động vật cơ bản nhất là gì?
trả lời: ý thức, chữ viết
câu hỏi phụ cười: tiếng nói
được 4+ theo thang điểm liên xô thời đi học
thi thoảng nhớ lại điều mình biết trong khoảnh khắc chưa bật ra được
tiếng nói làm nên con người qua chọn lọc tự nhiên, tiến hóa
tiếng nói thô mộc đến văn minh hiện đại
tiềm ẩn
  khả năng
      hiện thực
mềm mại yêu thương giận dữ coi thường
khát trong tâm thức

hành trình dài ngắn
khát mọi thứ con người cùng khát - phổ thông
khát không nói thành lời - kinh
những con chữ ngụy tạo tiếng cười, im lặng
chữ tri thức, ý đồ hiểm nguy, thảm họa
văn bản thường gọt giũa, hoán đổi, chọn từ chỉnh câu thành đại chúng
chữ viết từ ý thức hay vô thức thói quen
tiếng nói đọc lại những điều đã biết, lãng quên
đời sống đang có chút cuồng như thế
lên cơn co giật thời đại lời thả lên trời rơi xuống biển
                         

                           Sài Gòn, ngày 23 tháng 4 năm 2016

Thứ Bảy, 23 tháng 4, 2016

CON ĐƯỜNG XA

anh đi con đường xa, xa lắm
những khúc khuỷu những uốn cong chỉ là đoạn dạo đầu
hai bên đường bạt ngàn cây, cỏ bông lau
tay anh gạt tay anh phát thành con đường nho nhỏ
dấu chân đầu tiên hằn lên một chút đau
một chút lún mềm nát vụn
con đường anh qua lấp đầy hạnh phúc

con đường anh đi ngày đêm ồn ào loài thú
cọp beo trố mắt nhìn, sóc chạy qua nhảy vào bụi rậm…
những con thú vễnh tai nghe, loạn ầm vô cớ
đồ điên, sao không đi con đường người đông hơn
những con thú mắt đỏ ngầu giận dữ vì, anh đã đi vào vòng cư ngụ bầy đàn
chúng sợ mất miếng ăn
chúng sợ ngủ không ngon giấc
chúng sợ vùng đất này cạn kiệt và sợ bước chân vô thức tìm đường
tất cả, rửng rưng không đón nhận
anh cứ đi, nghĩ trong đầu, chúng chỉ là con thú

con đường anh đi qua khu rừng rộn ràng chim kêu
nghe tiếng gọi vỗ cánh bay xao xác
con sà xuống đất, con bay lên trời, con đậu ngang vai…
phát hiện ra anh đến từ miền quê lạ
nhưng chẳng sợ anh đi mất con đường mặt đất
bay trên không thách thức, chào đón vu vơ
anh đi, mặc đường bay trên cao
phía bầu trời cũ
phía con chim sinh ra đôi cánh

rất gần rất xa
gần như thân quen chạm tay vào sờ được
xa như chưa bao giờ biết đi hết cả cuộc đời
ngoái nhìn con đường xa vời trống hoác, bước chân lên điều mình thích
anh mỉm cười, không lặp dẫu tiếng gọi thân thương
đấy là tiếng bầy thú đàn chim níu bước anh qua lần gặp gỡ
những cơn gió hung tợn, muốn xô anh ngã gục trên đường
đám mây thấp dần để anh nhảy lên
đàn chim giúp anh ngồi trên đôi cánh
bầy thú đưa anh cưỡi trên lưng
không! anh chối từ, tự mình thổi tan ngọn gió

con đường anh đi vẫn còn rất xa
phía sau ngoằn ngoèo, đèo dốc, không mang theo được mất
anh kiên trì lần mò từng bước in trên đất dấu chân mình
bầy thú đàn chim đứng nhìn, cười anh, một gã lạc loài ngất ngưỡng
tự đày mình trên con đường xa


                          Sài Gòn, ngày 18 tháng 4 năm 2016

Thứ Năm, 21 tháng 4, 2016

CHIỀU EM ĐI

em đi rồi bóng hình giữa nắng chiều cũng tắt
một chút ngả nghiêng đám mây vàng nhạt
bước chân sau cùng đặt phía cuối trời
lóe lên hoàng hôn chới với
đêm mang em đi

mỗi chiều anh nhìn hoàng hôn
toàn thấy sắc màu tiễn biệt
những đám mây mang hình thù kì quặc
đứng chắn mặt
anh tưởng tượng xa vời
không thấy em không thấy trời em đến

nắng nhạt nhẽo về cuối mắt anh
chưa kịp hằn lờ mờ trong chiều em ngang trái
anh không đủ can đảm giữ lại
chiều chợt tắt
anh ngây người trước hoàng hôn đổ sập
cái nhìn nát thành mảnh sao băng

chiều đi qua rừng già đỉnh núi xa xăm
mấy lần rách bởi vướng cành khô đá sắc
chiều khâu một ráng vàng
rồi rơi vào không gian mờ mịt
em lặng im xa lánh

anh tìm thấy một buổi chiều bình yên
không gian nói với anh về em đi chiều ấy
anh vô tình hay cố tình biết vậy
chiều hối thúc
anh chỉ còn bóng đen

chiều cho anh phút giây ngọt ngào dịu êm
môi vừa chạm hoàng hôn tan mất
cái hôn luyến tiếc chạy mất dép
để khô rát chiều cong
em bỏ chiều ở lại
không gió không mây không ráng mặt trời

có thể chiều bỏ vĩnh viễn anh rồi
bao lâu nay anh chỉ thấy trưa gay gắt
rồi lại thấy màn đêm dằng dặc
trưa đi tắt bỏ qua buổi chiều vàng
cũng như em bỏ chiều để xa anh


        Sài Gòn, ngày 07 tháng 4 năm 2016


Thứ Bảy, 16 tháng 4, 2016

NGÀY CŨ ĐI QUA

ngày ấy đã cũ rồi rêu phong thành cổ kính
nhìn lại dấu chân bước bụi phủ mờ thời gian
nghe lại tiếng ngàn năm thơm mốc từng hơi thở
giữa vô hình trăn trở bóng người quen đi qua
sau giọt nước mắt khô có cái nhìn tĩnh giấc
lang thanh ơi lỡ bước đi thật xa thật xa

anh trở về ngày cũ lật giở từng trang mơ
cái cũ thì vẫn cũ lại cổ nữa đợi chờ
cái mới hào nhoáng quá thoáng trong mắt người qua
sai đúng chen xót xa giả vờ xen hạnh phúc
giấc ngủ sâu chợt thức nói vào trong nhóa nhòa
phút giây cùng tự nguyện lóe tựa ánh sao sa

anh trở về ngày cũ thấy hư vô rồi chăng
một ánh mắt biết cười một niềm vui nói bạo
đớ như tiếng con vẹt đang học biết tiếng người
cũng từng ấy chữ thôi sáo mòn vào ngày rỗng
muốn thêm một từ nữa đợi ngày cũ đi mau
nhìn những cái gật đầu hẹp hơn không gian hẹp

nhìn ngày cũ đi qua nghe tiếng cười toe toét
mắt trũng sâu mỏi mệt quầng thâm đen màn đêm
ngơ ngác trước ánh nhìn hận đời quên sám hối
cái gì cũng bối rối việc nào cũng ngỡ ngàng
ba-ri-e chắn ngang thôi đành chịu tặc lưỡi
cứ đi về ngày mới nhìn ngày cũ lặng lờ

ngày cũ thấy anh cười ngày mới sao bỡ ngỡ
ngày nào là cánh cửa đẩy vào rồi kéo ra
anh vu vơ chống mắt giữa trời đất bao la
ý nghĩ vơi cạn nhạt tuột qua từng ngày giờ
mây gió cũng thẫn thờ vịn vào từng con chữ
viết lên trời ngày cũ viết vào đời ngày xa

Sài Gòn, ngày 13 tháng 4 năm 2016

Thứ Sáu, 15 tháng 4, 2016

Tác phẩm lớn từ tâm hồn đồng điệu


Với tất cả tấm lòng yêu quý và tôn trọng tài năng văn chương bậc thầy của Hemingway, hai tác giả người Anh là nhà văn, nhà biên kịch Michael Palin và nhiếp ảnh gia nổi tiếng Basil Pao, đã bỏ ra nhiều năm trời để lần theo dấu chân xưa của Hemingway đặng tìm gặp những nhân chứng, nghe kể về những kỷ niệm, thu thập những sự kiện, chứng tích… nhằm tái hiện cho độc giả trọn vẹn “Cuộc phiêu lưu của đời Hemingway” bằng chuyện kể và hình ảnh minh họa sống động. Họ đã phải thuê máy bay bay khắp các vùng thuộc Hoa Kỳ, châu Âu, vùng biển Caribé, rồi cả vùng rừng rậm Đông Phi. Các tác giả cứ lần theo dấu chân của Hemingway mà đi, lúc lội bộ, lúc đi xe đạp, lúc lái xe hơi, lúc chèo thuyền và thậm chí thuê cả xe thiết giáp để tiến vào trung tâm thủ đô Paris như phóng viên chiến trường Hemingway từng trải nghiệm. 




TÁC PHẨM LỚN TỪ TÂM HỒN ĐỒNG ĐIỆU

ĐINH KỲ THANH

   ERNEST MILLER HEMINGWAY (21-7-1889 – 2-7-1961) là một nhà văn Mỹ nổi tiếng thế giới sau Đại chiến thế giới I và II. Ông đã từng được nhận Giải thưởng Báo chí Pulitzer cao quý của Hoa kỳ vào năm 1953 và vào tháng Mười năm 1954 ông lại được trao Giải Nobel Văn chương, một giải thưởng cao quý xác nhận ông là một nhà văn hàng đầu của nhân loại trong thế kỷ XX đầy biến động.
    Sinh ra trong một gia đình trí thức trung lưu, con trai của một người thầy thuốc ở Oak Park, vùng ngoại ô thành phố Chicago thuộc miền Đông Bắc Hoa Kỳ. Thời nhỏ Ernest Miller Hemingway học tại trường Trung học Oak Park và là một học sinh hiếu động rất ham thích bơi lội, chạy bộ đường dài, đi câu cá hồi, thi đấu quyền Anh và đá bóng. Cũng tại quê hương, cậu thiếu niên Hemingway đã rất sớm tham gia viết báo của trường.
     Năm 1917, tốt nghiệp trường Trung học, cậu bắt đầu nghề viết với tư cách một phóng viên tập sự của tờ báo Ngôi sao thành phố Kansas. Năm 1918, Hemingway tình nguyện làm lái xe cứu thương cho Hội Chữ thập đỏ Hoa Kỳ để rồi sang nước Ý của Châu Âu tham gia Đại chiến thế giới lần thứ I. Chàng trai Mỹ 19 tuổi này đã mặc quân phục và từng lái xe đi xuyên suốt vùng núi biên giới của nước Áo và nước Ý. Hemingway cũng đã phục vụ tại Bệnh viện Trung tâm thành phố Milan và chàng trai cao to lực lưỡng này đã vướng vào tiếng sét ái tình với nữ y tá Agnes Von Kurowsky cũng là công dân Mỹ.
      Năm 1919, chiến tranh kết thúc,  Hemingway trở về Hoa Kỳ và đón bà mẹ chuyển về sống ở thành phố Michigan. Từ năm 1920, Hemingway trở thành phóng viên của Tuần báo Ngôi sao Toronto. Năm 1921 ông cưới bà vợ đầu Hadley Richardson rồi chuyển qua sống tại Paris với tư cách một phóng viên nước ngoài của tờ Ngôi sao Toronto.
     Từ năm 1922 ông bắt đầu viết những truyện ngắn đầu tiên của mình song song với việc mải miết đi khắp nơi tìm hiểu, điều tra, lấy tư liệu…hành nghề báo chí.
      Cũng từ đây độc giả bắt đầu được thưởng thức những tác phẩm của một nhà văn Hoa Kỳ có bút hiệu Ernest Hmingway đang sống tại Paris và trải bước phiêu lưu khắp Thụy Sĩ, Tây Ban Nha, Pháp và Ý…
       Những tác phẩm đầu tay của ông được xuất bản tại Paris như “Ba truyện ngắn và Mười bài thơ” (1923) “Trong thời đại chúng ta” (1924)  đã hé lộ một tài năng và một văn phong  độc đáo. Thế nhưng phải đến khi các tiểu thuyết “Mặt trời vẫn mọc” (1926) và “Giã từ vũ khí” (1928) ra đời thì Hemingway mới thực sự nổi tiếng là một “nhà tiên tri của thời đại” đã dũng cảm nói lên tâm trạng thực của lớp trẻ phương Tây từng tìm mọi phương cách để sống và tồn tại trong lò lửa chiến tranh cũng như đang vất vả mưu sinh vào thời hậu chiến.
   Năm 1927, Hemingway ly dị bà vợ đầu Hadley Richardson để chung sống với bà vợ thứ hai là Pauline Pfeiffer. Ông cũng cho xuất bản tuyển tập truyện ngắn mang tên “Những ngưới đàn ông không sống với đàn bà”.
   Năm 1928, Hemingway rời Paris và trở về Hoa Kỳ sinh sống tại Key West. Trong những năm tiếp theo đó ông đã thường xuyên đi thăm châu Âu, các nước vùng Đông Phi châu để thu thập tư liệu rồi mài miệt viết và cho xuất bản những tập truyện ký “Chết vào buổi chiều” (1932); “Những ngọn đồi xanh châu Phi” (1935). Các tập truyện ký này kể về những chuyện đấu bò ở Tây Ban Nha, chuyện đi săn ở châu Phi… song không được người đọc hoan nghênh lắm, trong lúc các truyện ngắn khác do ông viết như “Hạnh phúc ngắn ngủi của Francis Macombe”, “Tuyết”, “Killimanjaro”… lại được tôn vinh là những kiệt tác văn chương. 
    Năm 1936 ông bắt đầu viết những vở kịch nói và truyện phim về đề tài chiến tranh ở Tây Ban Nha như “Có và Không Có” và “Cột thứ Năm”. Năm 1938, ông cho xuất bản tập “49 truyện ngắn đầu tiên”.
    Năm 1939 ông lại chia tay với bà vợ Pauline và chuyển qua sống tại Cuba cũng như thường xuyên qua lại thủ đô Paris, các thành phố ở Hoa Kỳ để hoàn thành tiểu thuyết “Chuông nguyện hồn ai” bất hủ, được xuất bản vào năm 1940. Tác phẩm này sau đó đã được chuyển ngữ và xuất bản ở nhiều nước trên thế giới.
    Năm 1940 Hemingway cưới bà vợ thứ ba là Martha Gellhorn và chuyển về cư ngụ tại vùng Finca Vigia thuộc đảo quốc Cuba. 
    Những năm sau này Hemingway đã thường xuyên đi qua châu Âu, châu Phi, các đảo ở Thái Bình Dương và thậm chí đã cùng bà Martha tới thăm Trung Hoa và vùng Viễn Đông với tư cách một phóng viên ở nước ngoài.
     Năm 1942 ông đã mua chiếc tàu đánh cá Pilar và cùng nó tham gia khám phá các vùng biển sâu thuộc Vịnh Caribé của Cuba. Năm 1944 Hemingway làm phóng viên chiến tranh cho Tạp chí Collier’s và từng bay trên khắp các nẻo đường chiến tranh của châu Âu để viết những phóng sự chiến trường nóng bỏng làm rung động dư luận khắp nơi.
     Năm 1945 ông lại tiếp tục chia tay với bà vợ thứ ba Martha và tới năm 1946 ông cưới bà vợ thứ tư là Mary Welsh và cùng nhau chung sống tại Cuba.
     Thời gian này ông đã viết thật nhiều bài báo và cho xuất bản tập truyện “Dưới bóng cây bên kia sông”, khởi thảo tập truyện “Vườn Eden” (xuất bản năm 1986, sau khi ông đã mất được 25 năm trời), cũng như đã hoàn thành và cho xuất bản và truyện vừa “Ông già và biển cả”, năm 1952.
      Chính truyện vừa “Ông già và biển cả” đã giúp đưa ông vượt lên hàng đầu đội ngũ nhà văn phương Tây cũng như đội ngũ các nhà văn xuất sắc toàn thế giới trong thế kỷ XX bởi tính nhân văn sâu sắc trong ý tưởng và văn phong độc đáo của tác phẩm.
    Năm 1961 ông trở về Hoa Kỳ chữa bệnh và đã tự sát bằng súng săn trong chính ngôi nhà của mình, kết thúc một cuộc đời phiêu lưu qua nhiều vùng trên hành tinh cũng như trải qua biết bao cuộc tình cháy bỏng bên mấy bà vợ kế tiếp nhau qua hơn nửa thế kỷ.
   Cuộc đời và văn nghiệp của Hemingway thực sự phong phú, phức tạp và đã gắn bó với nhiều miền đất, nhiều con người của nhiều dân tộc khác nhau. Dấu chân Hemingway đã in hằn trên nhiều ngả đường từ Bắc Mỹ qua Tây Âu, Đông Phi và châu Á. Những kỷ niệm về nhà văn, nhà báo Hemingway cũng còn ghi đậm trong tâm trí nhiều đồng nghiệp, nhiều bạn bè của ông đang sống khắp nơi.
    Với tất cả tấm lòng yêu quý và tôn trọng tài năng văn chương bậc thầy của Hemingway, hai tác giả người Anh là nhà văn, nhà biên kịch Michael Palin và nhiếp ảnh gia nổi tiếng Basil Pao, đã bỏ ra nhiều năm trời để lần theo dấu chân xưa của Hemingway đặng tìm gặp những nhân chứng, nghe kể về những kỷ niệm, thu thập những sự kiện, chứng tích… nhằm tái hiện cho độc giả trọn vẹn “Cuộc phiêu lưu của đời Hemingway” bằng chuyện kể và hình ảnh minh họa sống động. Họ đã phải thuê máy bay bay khắp các vùng thuộc Hoa Kỳ, châu Âu, vùng biển Caribé, rồi cả vùng rừng rậm Đông Phi. Các tác giả cứ lần theo dấu chân của Hemingway mà đi, lúc lội bộ, lúc đi xe đạp, lúc lái xe hơi, lúc chèo thuyền và thậm chí thuê cả xe thiết giáp để tiến vào trung tâm thủ đô Paris như phóng viên chiến trường Hemingway từng trải nghiệm. Cũng các tác giả này đã đến từng ngôi nhà Hemingway từng sống, ngồi uống cà phê và thưởng thức rượu tại các quán tại Pháp, Ý, Tây Ban Nha… cũng như tham gia cuộc chơi để bò rừng rượt chạy tại lễ hội truyền thống tưng bừng của vùng Pamplona, Tây Ban Nha. Chỉ riêng tại Tây Ban Nha, các tác giả đã phải mất hàng tháng trời để đặt chân lên được các vùng đất ngang dọc xứ này mà Hemingway đã từng in dấu chân phiêu lãng.
    Đúng vào dịp kỷ niệm 110 năm ngày sinh nhà văn Ernest Miller Hemingway, cuốn sách “Cuộc phiêu lưu của đời Hemingway” dày 256 trang khổ lớn 19x26.5cm đã được Nhà xuất bản Weidenfeld & Nicolson tại London, Anh quốc cho trình làng với 12 chương viết của Michael Palin cùng một bộ phóng sự đồ sộ với hàng trăm bức ảnh nghệ thuật đen trắng và màu quý báu (lựa chọn được trong hàng ngàn bức ảnh) mà Basil Pao đã sưu tập được cũng như chụp được ở khắp các vùng của thế giới mà Ernest Miller Hemingway đã từng đi qua.
   Cuốn sách đã hình thành từ chuyện kể của hàng trăm con người với những kỷ niệm xúc động cùng các giai thoại về nhà văn lớn đang còn hằn in sinh động trong tim óc họ. Cuốn sách cũng giúp ta được sống lại với không khí chiến tranh của hai kỳ Thế chiến cùng biết bao cảnh trạng sống, những phong tục, tập quán đặc thù của các dân tộc khác nhau với đủ mọi chủng tộc từ da đen, da trắng tới da vàng, da đỏ… trên các lục địa khác nhau.
   Cuốn sách kể lại cho chúng ta hầu như toàn bộ cuộc đời hoạt động hăng say, bận rộn của nhà văn, những cuộc phiêu lưu trên biển và trong rừng của một người ham đấu bò, câu cá và săn bắn thú rừng, thích phiêu lưu khám phá thiên nhiên cùng thổ dân châu Phi, dân da đỏ Idaho – My. Cuốn sách cũng cho ta trải nghiệm biết bao cuộc phiêu lưu trong tình trường của một người đàn ông đầy sức sống bản năng đồng thời cũng là một “gã phiêu lưu bạt mạng” đại diện tiêu biểu của tuổi trẻ Âu Mỹ trong suốt nửa đầu thế kỷ thứ XX.
    Tác phẩm lớn của những tâm hồn đồng điệu với Hemingway này là kết tinh của biết bao công phu sưu tầm, khám phá, sáng tạo của hai nghệ sĩ  lớn. Cuốn sách “Cuộc phiêu lưu của đời Hemingway” rất đáng được dịch ra tiếng Việt cũng như cần được giới thiệu rộng rãi cho độc giả nước ta để hiểu biết kỹ càng hơn về Hemingway, một thiên tài văn chương của Hoa Kỳ và thế giới, một tác giả lừng danh đã được trao giải thưởng Nobel văn chương cao quý nhất của nhân loại trong thế kỷ vừa qua./.

Nguồn: lethieunhon.blogspot.com

Thứ Bảy, 9 tháng 4, 2016

CƠN MƯA CHẠY TRỐN VÙNG ĐẤT KHÁT

những vùng đất đang bị truy bức
cướp đi sự sống của cỏ cây và biết bao thủy vật
đang nhìn trời nứt toác chân chim
đất đứng im
đứt hơi đứt tiếng

cái nắng phủ phàng
đổ lửa từ trên trời xuống đất
mây đi qua
gió đi qua
vội vàng không ngoảnh lại
không nói lời tạm biệt

những đám mây tụ tập nơi nao
những cơn mưa ồn ào trên biển cả
không đau xót về vùng đất khát
rơi thật nhanh tránh tiếng thở than
như xếp hàng đến lượt mình chợt ngớt
đất nhìn mưa bỡn cợt
đau lòng khô rang

những cơn mưa không ý thức
phải mang trong mình trách nhiệm tương thân
mưa cũng không oán trách bầu trời
bắt mình phải rơi vào nơi không cần nước
mưa theo quy luật
ngoài cãi nhau lí sự con người
mưa vẫn rơi
đất vẫn khát

những cơn mưa không bao giờ trở mặt
những vùng đất khô khát ngóng đợi mưa
quên kẻ thứ ba
đang đuổi cơn mưa chạy trốn
đang sa mạc hóa đất đai

Thứ Tư, 6 tháng 4, 2016

LÊ BÁ THỰ lặng lẽ mà hóm ngầm


Ngoài dịch thuật là mảng nổi trội nhất và bề thế nhất (ông đã có 26 tác phẩm văn học dịch từ tiếng Ba Lan), người ta vẫn gọi ông là nhà thơ Lê Bá Thự. Đã có nhiều báo và nhiều nhà thơ đã giới thiệu về thơ Lê Bá Thự, như báo Văn nghệ, báo Thanh niên, báo Phụ nữ, báo Người Hà Nội vv... Lê Bá Thự in nhiều thơ trên báo chí, nhưng có hai tập thơ đáng chú ý là Hoa giẻ  và Đi về ngày xưa. Đặc biệt tập thơ Đi về ngày xưa. Tên của tập thơ đã đủ nói lên nội dung tập thơ rồi. Đi về ngày xưa, chính là đi về với những kỷ niệm xưa của xứ Thanh, của huyện Thiệu Hóa quê anh. Đoạt nhiều giải thưởng dịch, nhưng anh còn đoạt cả giải trong một cuộc thi thơ hai năm một lần của báo Người Hà Nội.





LÊ BÁ THỰ LẶNG LẼ MÀ HÓM NGẦM

LÊ TUẤN LỘC

“Đại sứ văn hóa” của Ba Lan tại Việt Nam  
Tôi gặp Lê Bá Thự  lần đầu tiên vào mùa đông năm 2002. Tôi mời nhà thơ Bằng Việt và bạn bè đi uống bia ở một nhà hàng bia trên phố Nguyễn Chí Thanh. Cùng đi với Bằng Việt có một người dáng nhỏ nhắn, đầu hói. Anh Bằng Việt giới thiệu với tôi: Đây là anh Lê Bá Thự, nguyên bí thư  thứ nhất Đại sứ quán Việt Nam tại Ba Lan.    
Chúng tôi quen nhau rất nhanh. Anh cho tôi biết anh người Thanh Hóa. Thế là tôi có thêm một đồng hương xứ Thanh là người nổi tiếng. Anh tặng tôi tập thơ Hoa gie. Tôi được anh giới thiệu đó là tập thơ đầu tay của anh. Trông anh hiền lành chất phác và ít nói va càng quen anh lâu càng thấy cảm nhận này là đúng. Nhà thơ Bằng Việt nói: Lê Bá Thự sống rất chan hòa với bạn bè.   
Tôi không nghĩ rằng buổi gặp nhau lần đầu đó lại là cái duyên để rồi anh em chúng tôi quen thân nhau đến tận bây giờ, khi anh đã ngoài 70 tuổi, tóc đã bạc, đầu hói nhiều hơn. Khi bạn bè gặp nhau anh thường lặng lẽ, ít nói về mình. Thi thoảng, anh cầm theo phong kẹo sô cô la hay một cuốn sách mới dịch nào đó để tặng tôi và bạn bè. Những khi đó, chúng tôi thường nói với nhau về quê hương xứ Thanh với những bóng dáng bạn bè thân thuộc: Nhà thơ Văn Đắc, nhà thơ Mạnh Lê, nhà thơ Nguyễn Ngọc Quế, nhà văn Từ Nguyên Tĩnh,  nhà văn Đặng Ái...    
Ngày trước, tôi hiểu về đất nước Ba Lan rất ít. Chỉ biết có một Ba Lan với thủ đô Varsawas, có trái tim Sô-panh và những nhà thờ có tháp chuông cao vút. Tôi chỉ biết Ba Lan qua bài thơ Em ơi... Ba Lan của nhà thơ Tố Hữu, từ cái thuở tôi đang còn ngồi ghế nhà trường. Năm 2008, tôi đến Cracop, cố đô của Ba Lan, theo giới thiệu của Lê Bá Thự. Khi tôi đi Ba Lan, anh đã giúp tôi các thủ tục cần thiết và dặn dò những điều cần lưu ý khi đến Ba Lan. Rất tiếc tôi không đến được Varsawas để tưởng niệm trước tượng nhạc sỹ thiên tài Sô-panh. Nhưng bù lại, tôi đã được đọc thơ Tố Hữu Em ơi Ba Lan, để rồi, khi tôi đọc câu cuối cùng của bài thơ: ... Ca ngàn năm Ba Lan, Ba Lan... thì giai điệu rất nhạc của bài thơ đã được khán giả là những thợ mỏ Ba Lan vỗ tay nhiệt liệt, cho dù tôi đọc bằng tiếng Việt. Cái đêm cuối cùng trước khi rời cố đô Cracop của Ba Lan, trong hầm mỏ muối Wieliczka, trong ánh đèn nê ông sáng xanh lung linh, nghe tiếng nhạc valse du dương, tôi nhớ đến dịch giả Lê Bá Thự và thầm cảm ơn anh, bằng những tác phẩm dịch tuyệt vời đã được Việt hóa của anh, anh đã làm cho tôi càng thêm yêu Ba Lan.  Phó Thủ tướng Vũ Khoan đã từng nói một câu rất hay: Mọi quan hệ ngoại giao giữa hai quốc gia thường bắt đầu bằng mối quan hệ cá nhân. Khi chơi thân với Lê Bá Thự, tôi hiểu điều đó sâu sắc hơn. Bởi năm 2012, anh đã từng được trao Huân chương Công trạng Cộng hòa Ba Lan. Buổi lễ diễn ra rất long trọng nhưng đầm ấm, do ngài Đại sứ Ba Lan tại Việt Nam, thay mặt Tổng thống Cộng hòa Ba Lan trao. Nguyên văn của những lời hôm đó là “Huân chương được trao cho dịch giả nhà thơ Lê Bá Thự, về những đóng góp của ông trong việc giới thiệu văn học Ba Lan tại Việt Nam, góp phần vào việc tăng cường sự hợp tác và thắt chặt mối quan hệ hữu nghị giữa hai nước và hai dân tộc Ba Lan - Việt Nam”. Tham dự lễ trao tặng huân chương có nhiều yếu nhân trong lĩnh vực ngoại giao và văn chương quốc tế cũng như Việt Nam…  
Như thế đủ biết, văn hóa có tác dụng mạnh mẽ như thế nào đến sự hiểu biết lẫn nhau giữa con người với con người và tình hữu nghị giữa các dân tộc trên thế giới.    
Tôi đọc những tiểu thuyết, truyện ngắn và thơ Ba Lan do Lê Bá Thự dịch, hiểu thêm về một nền văn hoá rực rỡ với bốn nhà văn và nhà thơ được giải Nobel.  Có thể nói, Lê Bá Thự đã là một cây cầu nối quan trọng giữa nền văn hoá ấy với nền văn hóa Việt. Đến nay, anh vẫn là Ủy viên BCH Hội Hữu nghị Việt Nam - Ba Lan.
“Cây cười chưa lộ diện”    
Lê Bá Thự gia nhập Hội Nhà văn Việt Nam năm 2003 thì năm 2005 đã được mời vào Hội đồng văn học dịch của Hội và sau đó làm Phó Chủ tịch Hội đồng Văn học dịch Hội Nhà văn Việt Nam đến năm 2015. Điều này khẳng định uy tín dịch thuật của anh.    
Tôi rất thích những truyện cười Ba Lan do Lê Bá Thự dịch. Đọc những tập truyện như  Cười quanh năm, Năm châu cùng cười, Hành tinh cười... tôi cứ ngỡ đây là những truyện cười Việt Nam thật sự. Vì đó là những truyện cười Ba Lan đã được anh “Việt hóa” tài tình tới độ người đọc không còn nhận ra được đó là những truyện cười nước ngoài. Đọc truyện cười Lê Bá Thự dịch ta dễ dàng nhận ra một Lê Bá Thự hóm ngầm. Có thể khẳng định, Lê Bá Thự hiền lành và ít nói trong đời thường, nhưng đó chỉ là cái vỏ bề ngoài.
 Trong một bài báo, tôi không thể giới thiệu Lê Bá Thự đầy đủ như một tác giả, vì ông rất đa dạng, đa tài, nhưng có một mảng không thể không nói tới là thơ. Ngoài dịch thuật là mảng nổi trội nhất và bề thế nhất (ông đã có 26 tác phẩm văn học dịch từ tiếng Ba Lan), người ta vẫn gọi ông là nhà thơ Lê Bá Thự. Đã có nhiều báo và nhiều nhà thơ đã giới thiệu về thơ Lê Bá Thự, như báo Văn nghệ, báo Thanh niên, báo Phụ nữ, báo Người Hà Nội vv... Lê Bá Thự in nhiều thơ trên báo chí, nhưng có hai tập thơ đáng chú ý là Hoa giẻ  và Đi về ngày xưa. Đặc biệt tập thơ Đi về ngày xưa. Tên của tập thơ đã đủ nói lên nội dung tập thơ rồi. Đi về ngày xưa, chính là đi về với những kỷ niệm xưa của xứ Thanh, của huyện Thiệu Hóa quê anh. Đoạt nhiều giải thưởng dịch, nhưng anh còn đoạt cả giải trong một cuộc thi thơ hai năm một lần của báo Người Hà Nội.
Những bài thơ trong tập: Đi về ngày xưa, Tình xưa, Nơi sông Chu sông Mã, Vợ tôi, Với bạn đồng môn, Cô láng giềng, Mùa đom đóm mở hội, Cây đa làng tôi, Dáng xưa, Áo tơi vv... rất nông dân, rất quê mùa và rất quê choa. Tập thơ có 47 bài thì đã có 37 bài viết về kỷ niệm xưa, mối tình cũ hoa giẻ và xứ Thanh thuở thiếu thời.    
Về tập thơ Đi về ngày xưa, nhà thơ Vân Long viết: “... Cái chân tình của nhà thơ không cần duy mỹ, không cần cường điệu đi quá cái cảm xúc thực của mình đã làm rung động con tim của bạn bè, độc giả”. Nhà thơ Nguyễn Ngọc Quế nhận xét về tập thơ  Đi về ngày xưa: “...  Thơ Lê Bá Thự đau đáu tình quê hương, tình người, “mộc mạc mà man mác”, như nhà thơ Bằng Việt khen ngợi. Ông viết thơ cho mình, cho những hồi ức…”. Chỉ cần thế thôi, ta nhận ra một Lê Bá Thự - hồn thơ xứ Thanh.  
Ngoài hàng chục tác phẩm quan trọng của Ba Lan được Lê Bá Thự dịch công phu, những truyện cười Ba Lan đã được anh “Việt hóa” tài tình tới độ người đọc không còn nhận ra được đó là những truyện cười nước ngoài.   
Một gia đình hạnh phúc
Lê Bá Thự rất hiếu khách. Khi thì anh mời tôi đến chơi ăn cỗ Tết hay cùng tiếp khách với anh dịp có bạn quí từ nước ngoài về. Trong lúc chờ chị Nga, vợ anh, làm cơm, tôi hay thơ thẩn xem tranh treo trên tường, hay xem những cuốn sách anh đặt trên giá. Tôi rất thích bức tranh treo trong phòng khách của anh có tiêu đề “Chiều xuống Tả Xùa” với đàn ngựa đang thanh bình gặm cỏ trong nắng chiều. Xin lưu ý, Lê Bá Thự tuổi Nhâm Ngọ. Tết nhất, bạn văn đến nhà, bất cứ lúc nào anh cũng có chén “rượu Sô - panh” hay một chai rượu cỏ, đặc sản Ba Lan, để tiếp chúng tôi.    
Chị Nga, một giáo viên Hà Nội xinh đẹp, trông quí phái và nề nếp. Những bữa ăn ngon tại gia đều do chính tay chị làm đầu bếp. Tôi cảm được một gia đình hạnh phúc và đầm ấm. Tôi thèm được như gia đình anh. Đi đâu cũng có đôi, cho dù họ chẳng còn trẻ trung. Những buổi giới thiệu sách dịch của anh, bao giờ tôi cũng thấy chị Nga xuất hiện. Hình ảnh ấy như một nguồn động viên anh Lê Bá Thự, để công việc sáng tạo được tốt hơn. Tôi càng hiểu hơn, thấm thía hơn câu tục ngữ xưa: Giàu vì bạn, sang vì vợ.

Nguồn: lethieunhoncom.blogspot.com

Thứ Bảy, 2 tháng 4, 2016

YÊU - GHÉT

Yêu nhau lòng lợn tiết canh
ghét nhau đì tới mặt xanh nanh vàng
yêu nhau lòng lợn tính gang
ghét nhau gặp mặt quay ngang ngó trời

Yêu nhau bia rượu bời bời
ghét nhau xơi nước ngồi chơi một mình
yêu nhau là nghĩa là tình
ghét nhau làm mẩy làm mình, khó nghe

Yêu nhau sớm sớm cà phê
những giờ vàng ngọc khen chê khác thường
dẻo mồm nịnh nọt khoa trương
nói cười nhoen nhoẻn mở đường vinh thân
lễ dày tết nhất ân cần
có người khen sống “nhân văn” tuyệt vời

Ghét nhau gần hóa xa xôi
tung lời xiên xẹo, đãi bôi, ai ngờ
người hay thành dở, hững hờ
lặn vào nước đục chớ chờ nước trong
cái tình xát muối xót lòng
sự đời biến đổi theo dòng thời gian

Giữa trời giăng lưới giăng giàn
cái yêu cái ghét gác tràn lên mây